Chuyến du hành kỳ lạ của Ngài Daldry
Chuyến du hành kỳ lạ của Ngài Daldry
Tác giả: Marc Levy
Dịch giả: Huy Minh
Giới thiệu
Người đàn ông quan trọng nhất đời con vừa mới đây thôi đã lướt qua phía sau con. Giờ thì người đó không còn ở đây nữa. Để tìm được anh ta, con sẽ phải trải qua một hành trình dài và con phải gặp sáu người khác rồi mới tới người đó…
Trong con có hai cuộc đời Alice ạ. Một là cuộc đời mà con đang sống và một cuộc đời khác đã chờ đợi con bấy lâu nay.”
Luân Đôn, 1950
Sau lời tiên đoán đầy bí hiểm của bà thầy bói tại Brighton, Alice quyết định từ bỏ cuộc sống bình lặng để lên đường với người hàng xóm cùng tầng, Ngài Daldry, khởi đầu một hành trình đầy kỳ lạ. Và rồi hạnh phúc được tìm thấy ở chính nơi ít ai ngờ tới nhất...
Hồi hộp, ám ảnh, giằng xé, nhưng cũng đầy chất thơ cùng cảm giác êm đềm từ những ký ức mùi hương, tất cả những cảm xúc ấy hòa trộn tạo nên một trong những tiểu thuyết được coi là xuất sắc nhất của Marc Levy.
Nhận định
“Chuyến du hành kỳ lạ của Ngài Daldry là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Marc Levy bởi nó khiến ta xúc động và còn đi xa hơn thế.”
- Le Figaro
“Marc Levy đã trở lại với một cuốn tiểu thuyết có kịch bản đầy độc đáo và lãng mạn.”
- Cosmopolitan
“Chuyến du hành kỳ lạ của Ngài Daldry đầy chất thơ và đượm tình cảm...”
- Le Matin
“Một cuốn sách đẹp sẽ cuốn bạn đi.”
- France 2
“Thật khó mà tiên đoán điều gì, nhất là tiên đoán tương lai."
Pierre DAC
- Chị không tin vào số phận, cũng chẳng tin vào những dấu hiệu nhỏ của cuộc sống được cho là chỉ cho ta con đường cần phải đi. Chị không tin câu chuyện của các bà thầy bói vẫn dựa vào mấy lá bài mà phán tương lai. Chị chỉ tin đơn giản đó là sự trùng hợp, làình cờ mà thôi.
- Vậy thì sao chị lại bước vào một hành trình dài đến vậy, sao lại tới tận đây trong khi chị chẳng hề tin tất cả những chuyện này?
- Đó là vì một cây dương cầm.
- Một cây dương cầm ư?
- Nó đã bị lỗi nhịp giống những cây đàn cũ kỹ bị chỉnh âm ở quán bar và bị đẩy tới phòng ăn của đám binh lính. Nhưng ở nó có điều gì đó rất đặc biệt, hoặc có lẽ là người chơi nó khá đặc biệt.
- Ai chơi cây đàn ấy?
- Người hàng xóm cùng tầng vói nhà chị, nhưng chị cũng không hoàn toàn chắc đâu.
- Vì hàng xóm của chị chơi dương cầm mà tối nay chị mới có mặt ở đây sao?
- Có thể nói là như thế. Mỗi khi những nốt nhạc vang khắp cầu thang là chị lại như nghe thấy nỗi cô đơn và để chạy trốn nó, chị đã chấp nhận kỳ nghỉ Brighton ấy.
- Chị phải kể với em ngọn ngành chuyện này, rõ ràng hơn nếu chị kể theo trật tự.
- Chuyện dài lắm.
- Chẳng có gì mà phải vội đâu. Gió đang thổi từ ngoài khơi vào, trời rồi sẽ mưa thôi, Rafael vừa nói vừa tiến lại gần cửa sổ. Sớm nhất thì cũng phải hai hoặc ba ngày nữa em mới ra khơi được. Em sẽ đi pha trà còn chị thì kể chuyện nhé, và chị phải hứa là không được bỏ qua bất kỳ chi tiết nào đấy. Nếu như điều bí mật chị thổ lộ với em là sự thật, nếu như từ giờ chúng ta sẽ gắn bó với nhau suốt đời thì em muốn được biết.
Rafael quỳ xuống trước lò sưởi gang rồi đưa tay mở cửa lò, lấy hơi thổi vào đám than hồng.
Căn nhà của Rafael giản dị hệt như cuộc đời anh vậy. Bốn bức tường bao quanh, chỉ có duy nhất một phòng, mái nhà đơn sơ, sàn nhà mòn vẹt, một chiếc giường đơn, một bồn rửa, từ đó nhô ra vòi nước cũ kỹ vẫn chảy ra thứ nước có nhiệt độ đúng như nhiệt độ trong ngày, lạnh băng vào mùa đông và ấm nóng vào mùa hè trong khi lẽ ra cần phải ngược lại. Trong nhà chỉ có một cửa sổ nhưng nó lại nhìn ra cửa sông Bosphore; từ bàn Alice có thể nhìn thấy những con tàu lớn đang cập vào eo biển và phía xa đằng sau chúng là hình bóng đường bờ biển châu Âu.
Alice nhấp một ngụm trà Rafael vừa pha xong và bắt đầu câu chuyện.
1.
Luân Đôn, thứ Sáu 22 tháng Mười hai năm 1950
Cơn mưa rào quất mạnh vào mái kính phía bên trên chiếc giường. Một cơn mưa mùa đông nặng hạt. Phải vài trận mưa thế này nữa mới đủ tẩy rửa hết những uế tạp của chiến tranh khỏi thành phố. Hòa bình mới được năm năm nên phần lớn các khu phố vẫn còn mang vết tích của các trận ném bom. Cuộc sống lại tiếp tục, người ta ăn uống dè sẻn hơn, tuy đã đỡ hơn so với năm ngoái nhưng vẫn đủ khiến người ta nhớ lại cái thời có thể ăn uống thỏa thuê, và được ăn cả thịt tươi chứ không chỉ đồ hộp.
Buổi tối hôm ấy Alice cùng nhóm bạn ngồi chơi ở nhà cô. Sam bán sách tại hiệu Harrington & Sons và là một tay chơi công bát cừ khôi, Anton làm thợ mộc và thổi trompet thì vô song, Carol là y tá mới phục viên vừa được tuyển dụng vào bệnh viện Chelsea còn Eddy thì kiếm sống qua ngày bằng nghề hát rong ở chân cầu thang nhà ga Victoria hoặc trong các quán rượu khi được phép.
Tối hôm ấy chính anh chàng đã đề xuất ý kiến làm một chuyến dạo chơi tới Brighton vào ngày hôm sau nhân dịp Noel. Những trò vui dọc bên bờ đê chắn sóng lớn đã được mở lại và đến thứ Bảy thì hội chợ sẽ vào phiên nhộn nhịp nhất.
Ai nấy gom tiền còn sót lại trong túi. Eddy đã kiếm được chút ít trong một quán bar ở Notting Hill, Anton được ông chủ thưởng một khoản nhỏ dịp cuối năm. Carol không còn một xu nhưng cô thì có bao giờ sẵn tiền đâu và đám bạn thân đã quen bao cô mọi thứ. Sam vừa mới bán được cho một bà khách người Mỹ cuốn The voyage out bản đặc biệt và một cuốn Ngài Dalloway tái bản lần hai, vì vậy trong một ngày anh kiếm được bằng cả tuần làm việc. Còn Alice, cô cũng có chút tiền tiết kiệm và cô đáng được tiêu chúng bởi cô đã làm việc cật lực cả năm trời và dù thế nào thì cô cũng sẽ tìm bằng được một cái cớ nào đó để đi chơi cùng nhóm bạn ngày thứ Bảy này.
Chai rượu mà Anton mang tới khi mới uống vào có vị nùi rơm, sau đó để lại dư vị chua giấm nhưng cả nhóm bạn đã cùng nhau uống kha khá, rồi chếnh choáng đồng thanh hát, hết bài nọ đến bài kia, càng lúc càng to tới mức người hàng xóm cùng tầng, Ngài Daldry, phải sang đập cửa.
Là người duy nhất đủ can đảm ra mở cửa, Sam hứa rằng chuyện ồn ào sẽ chấm dứt ngay lập tức, và rằng cũng đã đến lúc ai về nhà nấy. Ngài Daldry chấp nhận lời xin lỗi nhưng không quên cao giọng tuyên bố rằng mình đang cố chợp mắt nên mong cô hàng xóm đừng biến điều đó thành bất khả. Tòa nhà kiểu Victoria họ ở không phải để biến thành câu lạc bộ nhạc jazz và chỉ riêng việc nghe tiếng họ trò chuyện vang qua tường nhà đã đủ khó chịu rồi. Sau đó, người đàn ông quay gót về căn hộ của mình ngay phía đối diện.
Các bạn của Alice bắt đầu khoác áo măng tô, quàng khăn và đội mũ vào rồi họ hẹn gặp lại nhau mười giờ sáng hôm sau tại nhà ga Victoria, trên đường ke của chuyến tàu tới Brighton.
Khi chỉ còn lại một mình, Alice bắt tay vào dọn dẹp căn phòng lớn vẫn được dùng làm xưởng làm việc, phòng ăn, phòng khách hay phòng ngủ tùy thuộc vào thời điểm trong ngày.
Đang lúi húi kéo chiếc tràng kỷ ra thành giường thì cô đột nhiên đứng dậy, nhìn ra cửa chính. Làm sao mà người hàng xóm lại dám cả gan phá đám một buổi tối vui vẻ đến vậy của cô và anh ta có quyền gì mà can dự vào chuyện nhà cô?
Cô vơ lấy chiếc khăn àng trên giá mắc áo măng tô, soi mình trong tấm gương nhỏ treo ở lối vào, rồi lại bỏ chiếc khăn làm cho cô trông già hơn ra, sau đó cả quyết bước sang gõ cửa nhà Ngài Daldry. Tay chống nạnh, có đứng đợi người hàng xóm ra mở cửa.
- Hãy nói với tôi rằng cô nhìn thấy lửa và rằng cơn hốt hoảng bất chợt của cô không có lý do nào khác ngoài việc nhằm cứu tôi khỏi đám cháy, người đàn ông cất giọng lạnh lùng.
- Thứ nhất, mười một giờ đêm trước kỳ cuối tuần không phải là một thời điểm oái oăm, hơn nữa, tôi đã phải thường xuyên chịu đựng thứ âm nhạc của anh, điều đó đủ để anh dung thứ cho chuyện có chút ồn ào vào lần duy nhất tôi tiếp đón bạn bè này!
- Thứ Sáu nào mà cô chẳng tiếp đón đám bạn ồn ào của mình, và các cô còn có thứ thói quen đáng ghét là thường xuyên chè chén, điều ấy chẳng phải là không ảnh hưởng đến giấc ngủ của tôi. Và nói cho cô biết là tôi không hề có đàn dương cầm, thứ âm nhạc mà cô cứ kêu ca phàn nàn chắc hẳn là tác phẩm của một người hàng xóm khác, có thế là của quý bà tầng dưới. Còn tôi, thưa cô, tôi là họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ, và hội họa thì không gây ồn ào đâu cô ạ. Chao ôi, tòa nhà này đã từng yên ắng biết bao khi chỉ có mình tôi ở!
- Anh vẽ ư? Chính xác thì anh vẽ gì, thưa Ngài Daldry? Alice hỏi.
- Phong cảnh thành thị.
- Thật kỳ lạ, tôi chả thấy anh vẽ bao giờ, tôi cứ tưởng…
- Cô tưởng gì, thưa cô Pendelbury?
- Tôi tên Alice, anh hẳn phải biết tên tôi bởi có cuộc chuyện trò nào ở nhà tôi lọt khỏi tai anh đâu.
- Chuyện tường ngăn giữa hai căn hộ không đủ dày chẳng liên quan gì đến tôi cả. Giờ thì sau khi chúng ta đã chính thức chuyện trò, liệu tôi có thể quay về ngủ được chưa hay là cô muốn tiếp tục nói chuyện trên thềm nghỉ?
Alice nhìn người hàng xóm một thoáng.
- Có điều gì đó không ổn với anh sao? Cô hỏi.
- Xin thứ lỗi tôi không rõ ý cô?
- Tại sao anh cứ giữ thái độ xa cách và thù nghịch đến vậy? Lẽ ra là chỗ hàng xóm láng giềng với nhau thì chúng ta cũng nên cố gắng một chút để hiểu nhau hơn hoặc ít ra cũng cố tỏ ra như vậy chứ.
- Tôi sống ở đây trước cô lâu rồi, thưa cô Pendelbury, nhưng kể từ khi cô chuyển đến căn hộ mà tôi cũng đang muốn thuê lại này, cuộc sống của tôi đã bị đảo lộn không ít và bầu không khí yên tĩnh chỉ còn là một dĩ vãng xa xăm với tôi. Đã bao lần cô tới gõ cửa nhà tôi vì cô hết muối, hết bột mì hay vì cần một chút margarin để nấu ăn cho đám bạn quá mức quý hóa của mình, hay hỏi xin nến lúc mất điện? Cô đã bao giờ tự hỏi liệu những lần phá ngang thường xuyên ấy có ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư của tôi hay không?
- Anh muốn thuê lại căn hộ của tôi ư?
- Tôi muốn biến nó thành xưởng vẽ. Trong tòa nhà này cô là người duy nhất được hưởng một mái kính sáng sủa. Thế đấy, hẳn là ông chủ nhà đã ưu ái cho vẻ duyên dáng của cô, trong khi tôi phải bằng lòng với thứ ánh sáng tù mù hắt qua mấy ô cửa sổ nhỏ xíu.
- Tôi chưa bao giờ gặp chủ nhà ở đây cả, tôi thuê căn hộ này qua một văn phòng nhà đất.
- Chúng ta có thể dừng cuộc nói chuyện tại đây không?
- Có phải vì vậy mà từ khi tôi dọn tới sống ở đây, anh cứ tỠra lạnh nhạt với tôi không, thưa Ngài Daldry? Chính là vì tôi đã thuê được căn xưởng vẽ mà anh mong muốn?
- Thứ đang phải chịu lạnh hiện giờ chính là đôi chân của tôi, thưa cô Pendelbury. Cuộc trò chuyện của chúng ta đang bắt đôi chân tội nghiệp ấy phải hứng gió lạnh. Nếu cô không thấy bất tiện thì tôi xin phép rút lui trước khi bị trúng cảm. Xin chúc cho cô một đêm an giấc, riêng bản chân tôi thì nhờ có cô mà giấc ngủ đã được rút ngắn.
Ngài Daldry nhẹ nhàng đóng cửa lại ngay trước mặt Alice.
- Thật là một con người kỳ cục! Alice lẩm bẩm trong lúc quay bước về nhà.
- Tôi nghe thấy rồi đấy, Ngài Daldry ngay lập tức hét lên từ trong phòng khách. Chúc buổi tối tốt lành, cô Pendelbury.
Quay về căn hộ của mình, Alice rửa ráy qua loa rồi cuộn mình trong chăn. Ngài Daldry có lý, mùa đông đã bao lấy tòa nhà kiểu Victoria này vì hệ thống sưởi công suất yếu không đủ làm nhiệt độ phòng tăng lên. Cô cầm cuốn sách đang đặt trên chiếc ghế đẩu được dùng làm bàn đầu giường lên, đọc vài dòng rồi lại đặt xuống. Cô tắt đèn và đợi cho mắt mình quen với bóng tối. Nước mưa chảy ròng ròng trên tấm mái kính, Alice khẽ rùng mình rồi cô bắt đầu nghĩ tới mặt đất nhão nhoét trong rừng, tới thảm lá đang mục ruỗng vào mùa thu trong rừng sồi. Cô hít một hơi thật lâu và thứ mùi ấm nóng của bùn bỗng xâm chiếm lấy cô.
Alice có một khả năng đặc biệt. Khứu giác của cô nhạy bén hơn người bình thường gấp nhiều lần nên cô có thể phân biệt được những mùi dù chỉ là thoáng qua và ghi nhớ rất lâu. Cô dành hàng ngày trời lúi húi bên chiếc bàn dài trong xưởng của mình để pha chế một loại hỗn hợp mà một ngày nào đó có thể trở thành một loại nước hoa. Alice rất “thính mũi”. Cô làm việc độc lập và mỗi tháng lại dạo một lượt qua các nhà sản xuất nước hoa ở Luân Đôn để giới thiệu với họ mẫu pha chế mới của mình. Mùa xuân vừa rồi, cô đã thuyết phục được một người chịu tung ra thị trường sản phẩm của cô. “Nước hoa tầm xuân” của cô đã quyến rũ một nhà sản xuất ở Kensington và được đám khách hàng giàu sang khá ưa chuộng, nó đã mang lại cho cô một khoản lợi tức nhỏ mỗi tháng và giúp cô có cuộc sống sung túc hơn những năm trước đôi chút.
Cô lại bật đèn đầu giường lên và ngồi vào bàn làm việc. Cô gấp ba mẩu giấy thử đã ngâm vào ba chiếc lọ khác nhau, và giữa đêm khuya, Alice ngồi ghi lại vào sổ những gì nhận thấy.
* * *
Chuông báo thức kéo Alice ra khỏi giấc ngủ, cô ném cái gối vào đồng hồ cho tiếng chuông dừng kêu. Ánh mặt trời được màn sương mù buổi sớm bao phủ rọi vào mặt cô.
- Cái mái kính chết tiệt! cô làu bàu.
Rồi ý nghĩ về cuộc hẹn tại ke tàu thắng được cảm giác biếng nhác trong cô.
Cô bật dậy, vơ quàng vài món quần áo trong t砲ồi lao vào nhà tắm.
Khi ra khỏi nhà, Alice đưa mắt liếc đống hồ đeo tay, nếu đi bằng xe buýt cô sẽ trễ giờ hẹn tại ga Victoria. Cô liền vẫy taxi, và ngay khi ngồi vào xe, cô đã yêu cầu tài xế đi đường nào nhanh nhất.
Khi cô tới được ga, năm phút trước giờ tàu khởi hành, một hàng dài hành khách đã đứng chờ trước các quầy vé. Alice nhìn về phía ke tàu rồi vội chạy tới.
Anton đang đứng đợi cô ở toa đầu tiên.
- Mẹ kiếp, em làm gì thế hả? Trèo lên mau! Anh vừa nói vừa giúp cô leo lên bậc cửa toa tàu.
Cô vào được khoang tàu nơi cả nhóm bạn đang đợi.
- Theo mọi người, xác suất chúng ta bị soát vé là bao nhiêu? cô hỏi rồi ngồi xuống, mệt đứt hơi.
- Anh sẽ nhường vé của anh cho em nếu anh có mua vé, Eddy đáp.
- Năm mươi năm mươi thôi, Carol tiếp lời.
- Vào sáng thứ Bảy ư? Anh thì nghĩ chắc đến hai phần ba cơ hội là chúng ta sẽ thoát được... Tàu đến ga thì sẽ biết thôi, Sam kết luận.
Alice tựa đầu vào cửa kính và nhắm mắt lại. Bãi biển họ định tới nằm cách thủ đô một giờ tàu. Cô ngủ suốt chuyến đi.
Tới ga Brighton, một nhân viên soát vé đứng thu vé của hành khách ở lối ra. Alice dừng lại trước anh ta và làm ra vẻ đang lục tìm trong túi. Eddy bắt chước cô. Anton mỉm cười đưa cho mỗi người một tậ vé.
- Tôi cầm vé hộ họ, anh nói với nhân viên soát vé.
Anh vòng tay ôm eo Alice rồi kéo cô ra sảnh nhà ga.
- Đừng hỏi là làm sao anh lại biết em sẽ tới muộn. Em lúc nào mà chẳng muộn! Còn về Eddy, em cũng biết rõ cậu ấy chẳng kém gì anh rồi, đó là một tay chuyên đi lậu vé và anh không muốn ngày hôm nay bị phá hỏng ngay từ khi chưa bắt đầu.
Alice lấy từ trong túi ra hai shilling rồi chìa cho Anton nhưng anh nắm bàn tay cầm mấy đồng xu của cô bạn lại
- Giờ thì lên đường nào, anh nói. Một ngày trôi nhanh lắm mà anh lại không muốn bỏ lỡ điều gì.
Alice nhìn anh bạn nhảy nhót xa dần; cố lại chợt thoáng thấy ở anh cậu thiếu niên năm nào, và cảm giác ấy khiến cô mỉm cười.
- Em không đi à? Anh quay lại hỏi.
Họ xuống đường Queen rồi phố West dẫn tới con phố đi dạo chạy dọc bờ biển. Mọi người đã tụ tập tại đó khá đông. Hai con đê lớn vươn mình ra trước sóng biển. Hàng cột gỗ nhô cao trên đê khiến chúng trông như hai con tàu khổng lồ.
Các trò vui trong phiên hội chợ được bày ra trên quảng trường Pier.
Nhóm bạn tới chân tháp đồng hồ nơi dựng cổng vào. Anton mua vé cho Eddy và ra hiệu với Alice rằng anh đã mua cả cho cô.
- Anh không phải mời em cả ngày đâu, cô thầm thì vào tai anh.
- Sao lại không nếu như điều đó khiến anh vui?
- Bởi chẳng có lý do gì để...
- Tự làm mình vui chẳng phải là một lý do chính đáng hay sao?
- Mấy giờ rồi ấy nhỉ? Eddy hỏi. Tớ thấy đói rồi.
Cách đó vài mét, ngay trước tòa nhà lớn có căn nhà kính trồng cây là một quầy bán cá và khoai tây chiên. Mùi dầu rán cùng mùi giấm bay tận tới chỗ họ, Eddy xoa bụng rồi kéo Sam tới lán hàng. Alice bĩu môi ngán ngẩm đi theo các bạn. Từng người gọi món cho mình rồi Alice trả tiền cho nhân viên bán hàng, sau đó cô quay sang mỉm cười với Eddy, tặng cho anh bạn một gói cá chiên.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian